Đặng Công Diễn - Vị tiến sĩ văn thao võ lược triều đại Hậu Lê
Ngày cập nhật: 01/02/2023

Tiến sĩ Đặng Công Diễn sinh ngày 24/6/1698 và mất ngày 13/4/1769. Mộ tổ táng tại Xuân Quan (nay là xã Kim Lan, huyện Gia Lâm, Hà Nội ). Năm 1809, đời vua Gia Long lập đền thờ cụ ở xóm Ngánh (nay là ngõ 221 số nhà 17) thôn Phù Đổng 2, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Cụ có tên huý là Thiều, tên tự là Công Diễn, tên thuỵ là Hùng Đạt. Người là con trưởng cụ Cường Nghĩa (cụ Công Cơ, Mậu Thưởng) và là người giữ chức Hữu trung doãn Tuyên Quang xứ thừa Chánh xứ.

Vào năm 1721 (Năm Tân Sửu), cụ thi hương và đỗ giải Nguyên. Trong sáu năm sau đó, từ năm 1723-1729, Người đã giữ nhiều vị trí và trọng trách khác nhau như: làm huấn đạo phủ Bắc Hà, làm tri huyện Gia Lâm, là người sở hữu niên hiệu Bảo Thái thứ 8, thi Đình và trúng Hội nguyên đỗ Tam Giáp đồng Tiến sĩ. Năm 1730, Cụ được thăng chức Hàn Lâm hiệu thảo viện Hàn Lâm. Năm 1732, Cụ được thăng chức Hiệu trưởng Quốc Tử Giám và sau đó, năm 1733, chuyển sang lễ khoa đô cấp sự trung (làm quan võ). Vào năm Giáp Dần ( 1734), Cụ làm đốc đồng ở Kinh Bắc và làm giám sát ngự sự ở Sơn Tây (1736), giám sát ngự sử Bộ Hình, được vua ban sắc phong (1739). Năm Canh Thân (1740), Tiến sĩ Đặng Công Diễn làm Nhập thị Bồi tụng trị thị nội thư tả binh phiên Thăng Hàn làm viện thi thư. Ngày 17/11/1744, Phù Đổng được ban thưởng là “Trung nghĩa dân” vì Phù Đổng là nơi yên bình, người các nơi chạy loạn đến Phù Đổng ở nhờ gọi Phù Đổng gọi là “Miền tiên giới trẻ mãi”. Từ năm 1745 về sau, cụ vẫn trực tiếp chỉ huy đánh giặc ở nhiều nơi như Lương Tài, Gia Định, Tư Vi, Chi Nê, Lạng Giang, Đồng Đăng, Lạng Sơn,…

Về Quân sự: khi được Vua hỏi về cách xử trí những tình huống phức tạp về quân sự, Cụ tấu trình cặn kẽ và kết luận:
“… Tình thế giặc như vậy phải lấy uy mà doạ, lấy lời mà dụ là được. Phép dung binh nói đánh vào lòng người là trước hết rồi mới đánh vào thành, giữ nước toàn vẹn là trên hết, để nước bị tán phá là bất đắc dĩ”. Vua khen và tán thưởng. 
 
Về văn học: Văn thơ của Cụ uyên bác và được thể hiện qua nhiều bài thơ mà cụ để lại. Nhân dịp mừng thọ, Thượng quan sai Cụ ra đề, Cụ nhấc bút là xong. Thượng quan xem xong, tấm tắc khen “Người như thế này lâu lắm mới thấy, khẩu khí mênh mang, đọc lên khiến con người mạnh mẽ, ý tứ sâu rộng. Thơ chứa đựng vẻ vui mừng, sảng khoái. Đúng là thư pháp anh hùng”. 

Có lần Cụ được xướng hoạ với Vua. Trước khi ra trận, Vua làm thơ tặng cụ:
Gan vàng dạ sắt cũng ông nghè
Bốn cõi xin đừng phụ chí kia
Dẹp giặc xưa từng ra mặt giúp
Vá trời nay lại cậy tay che
Muôn phần quyết hẳn muôn phần chắc
Việc võ ra oai chỉn lệnh ghê
Liệu sớm lập công non nước đợi
Tên ghi tre lụa để làm ghi

Cụ còn hai bài thơ hoạ lại bài thơ của vua, còn lưu ở nhà thờ.
Từ một quan văn: Tiến sĩ, Hiệu trưởng Quốc Tử Giám, văn thơ uyên bác, chuyển sang làm quan võ, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh, chiến thắng liên tiếp và có nhiều kế sách hay trong đường lối quân sự,….Đặng Công Diễn là người văn võ song toàn, được lưu danh trong sử sách. Nay ở Văn miếu Quốc Tử Giám còn bia đá ghi công lao của cụ với dân với nước.